Chất tạo ngọt

Hiện nay, mong muốn ăn những món ngọt mà không làm bạn béo đã dẫn đến sự phát triển của nhiều loại chất ngọt cường độ cao có hàm lượng calo thấp ngọt hơn nhiều so với đường sucrose và chỉ cần sử dụng một lượng nhỏ để thỏa mãn vị giác. Chúng không phải là một phát minh hiện đại - đầu tiên, saccharin, được sản xuất lần đầu tiên vào năm 1878.

Nếu đó không phải là chất làm ngọt cường độ cao nhân tạo, cách duy nhất để thỏa mãn cảm giác ngọt ngào là sử dụng các loại đường tự nhiên như sucrose, fructose và maltose, những chất này chứa đầy calo và góp phần gây sâu răng.

Hầu hết các sản phẩm thực phẩm đều sử dụng hỗn hợp các chất tạo ngọt. Các quy định giới hạn mức sử dụng tối đa đối với Nếu không phải là chất làm ngọt cường độ cao nhân tạo, cách duy nhất để thỏa mãn cảm giác ngọt ngào là sử dụng các loại đường tự nhiên như sucrose, fructose và maltose, chứa đầy calo và góp phần gây sâu răng. chất làm ngọt cường độ cao và mỗi loại có đặc điểm mùi vị riêng, chẳng hạn như vị kim loại, vị đắng, kéo dài hoặc khởi phát chậm. Hiệu ứng tổng hợp cũng có nghĩa là hỗn hợp thường có thể tạo ra vị ngọt thậm chí mạnh hơn so với các thành phần riêng lẻ.

Sucrose, hoặc đường ăn, là tiêu chuẩn dựa trên độ ngọt tương đối của tất cả các chất tạo ngọt khác. Bởi vì sucrose cung cấp năng lượng dưới dạng carbohydrate, nó được coi là một chất làm ngọt dinh dưỡng. Các chất làm ngọt dinh dưỡng khác bao gồm glucose, fructose, xi-rô ngô, xi-rô ngô có hàm lượng fructose cao và rượu đường (ví dụ: sorbitol, mannitol và xylitol).

Những nỗ lực tổng hợp hóa học chất ngọt bắt đầu vào cuối những năm 1800 với việc phát hiện ra saccharin. Kể từ đó, một số hợp chất tổng hợp đã được phát triển cung cấp ít hoặc không có calo hoặc chất dinh dưỡng trong chế độ ăn uống và được gọi là chất ngọt không dinh dưỡng. Những chất làm ngọt này có khả năng làm ngọt lớn hơn đáng kể so với sucrose, và do đó, nồng độ tương đối thấp có thể được sử dụng trong các sản phẩm thực phẩm. Ngoài saccharin, các chất làm ngọt không dinh dưỡng được sử dụng phổ biến nhất là cyclamates, aspartame và acesulfame K.

Cảm giác ngọt được truyền qua các phân tử protein cụ thể, được gọi là các thụ thể, nằm trên bề mặt của các tế bào vị giác chuyên biệt. Tất cả các chất tạo ngọt hoạt động bằng cách liên kết với các thụ thể này ở bên ngoài tế bào. Độ ngọt tăng lên của các chất ngọt không dinh dưỡng so với sucrose có thể là do sự liên kết chặt chẽ hơn hoặc lâu hơn của các hợp chất tổng hợp này với các thụ thể.

Chất làm ngọt không dinh dưỡng chủ yếu được sử dụng để sản xuất các sản phẩm có hàm lượng calo thấp bao gồm bánh nướng, bánh kẹo, các sản phẩm từ sữa, món tráng miệng, chất bảo quản, nước ngọt và chất làm ngọt dạng viên. Chúng cũng được sử dụng như một chất thay thế carbohydrate cho những người mắc bệnh đái tháo đường và trong kẹo cao su và kẹo để giảm thiểu nguy cơ bị sâu răng (tức là sâu răng). Không giống như chất ngọt dinh dưỡng, chất làm ngọt không dinh dưỡng không cung cấp độ nhớt hoặc kết cấu cho sản phẩm, vì vậy chất tạo phồng như polydextrose thường được yêu cầu để sản xuất.

Sorbitol (E420) là chất lâu đời nhất trong số các chất tạo ngọt số lượng lớn. Nó thường được tìm thấy trong các sản phẩm thực phẩm và đồ uống dành cho người ăn kiêng, cũng như bánh kẹo như kẹo bạc hà và kẹo cao su không đường. Nó được tìm thấy trong quả thanh lương trà, nhưng như một thành phần thực phẩm, nó được tạo ra bằng cách biến đổi đường hóa học.

Xylitol (E967) là một loại rượu đường tự nhiên lần đầu tiên được chiết xuất thương mại từ cây bạch dương. Nó có khoảng 2/3 lượng calo là đường và không gây sâu răng. Nó được tìm thấy trong nhiều loại bánh kẹo, nhưng đôi khi có tác dụng nhuận tràng.

Acesulfame K (E950) ngọt hơn sucrose khoảng 200 lần. Được phát minh tại Đức vào năm 1967, nó để lại dư vị hơi đắng trong miệng, có nghĩa là nó hiếm khi được sử dụng một mình như một chất làm ngọt. Không giống như một số chất làm ngọt mạnh khác, nó bền nhiệt trong quá trình nấu nướng. Các ứng dụng phổ biến bao gồm các sản phẩm bánh mì và nước giải khát, nơi nó thường được pha trộn với các chất làm ngọt khác và làm chất tạo ngọt cho đồ uống nóng.

Aspartame (E951) là một chất tạo ngọt được phát minh ở Mỹ vào năm 1965, và có chứa hai axit amin liên kết với nhau bằng một liên kết hóa học. Nó ngọt hơn sucrose khoảng 200 lần, nhưng vì nó bị phân hủy khi đun nóng, nó không thích hợp cho các ứng dụng nướng, mặc dù nó có thể được thêm vào thức ăn nóng trước khi dùng, chẳng hạn như đồ uống nóng, trái cây hầm hoặc cháo. Nó thường được tìm thấy trong nước giải khát và các sản phẩm bánh kẹo. Những người mắc chứng bệnh hiếm gặp phenylketon niệu không thể chuyển hóa một trong các axit amin cấu thành của nó, phenylalanin, và vì vậy phải cố gắng tránh nó. Đây là lý do tại sao nhãn sản phẩm phải ghi rõ 'chứa nguồn phenylalanin' nếu là thành phần của aspartame. 

Cyclamate (E952) ngọt hơn đường khoảng 30 lần, và nó thường được sử dụng kết hợp với các chất tạo ngọt khác.

Sucralose (E955) là chất mới nhất trong số các chất tạo ngọt mạnh và ngọt hơn đường khoảng 600 lần. Nó được tạo ra bằng cách thay thế ba trong số các nhóm rượu trong sacaroza bằng các nguyên tử clo, làm tăng độ ngọt của nó một cách đáng kể. Nó bền nhiệt nên có thể được sử dụng trong các sản phẩm bánh mì. Nó ngày càng trở nên phổ biến trong các sản phẩm từ nước ngọt, bánh kẹo đến đồ uống nóng.

Ngoài hóa chất cơ bản, chúng tôi còn cung cấp các thiết bị y tế như: găng tay y tếvật tư y tếhóa chất sát khuẩn khử trùnghóa chất xét nghiệmtest thử nhanhnhiệt kế.... với số lượng lớn, giao hàng nhanh. Dịch vụ uy tín, chất lượng. 

CÔNG TY TNHH XUẤT NHẬP KHẨU DỊCH VỤ LINH ĐAN

Địa Chỉ: 158 Đường TL 41, Phường Thạnh Lộc, Quận 12, Thành phố Hồ Chí Minh

Điện Thoại: 028 22467474 - 028 22457474

Web: www.cungcaphoachat.com

Email: linhdanchemicals@gmail.com